I have heard that: On one occasion the Blessed One was staying near Vesali in the Great Forest, at the Peaked Pavilion. Now at that time a large number of monks had declared final gnosis in the Blessed One's presence: "We discern that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for the sake of this world.'"




Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly), ở Đại Lâm, tại Trùng Các giảng đường (Kutagarasala). Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo, trước mặt Thế Tôn tuyên bố đă chứng trí giác : "Chúng tôi biết rằng sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những điều nên làm đă làm, không c̣n trở lại trạng thái này nữa".

 

Sunakkhatta the Licchavin heard that "A large number of monks, it seems, have declared final gnosis in the Blessed One's presence: 'We discern that "Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for the sake of this world."'" Then Sunakkhatta the Licchavin went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One:
-"I have heard, lord, that a large number of monks have declared final gnosis in the Blessed One's presence: 'We discern that "Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for the sake of this world."' Now, have they rightly declared final gnosis, or is it the case that some of them have declared final gnosis out of over-estimation?"



Sunakkhatta Licchaviputta (Thiện Tinh Ly-xa Tử) được nghe : "Nhiều Tỷ-kheo, trước mặt Thế Tôn tuyên bố đă chứng trí giác : "Chúng tôi biết rằng sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những điều nên làm đă làm, không c̣n trở lại trạng thái này nữa". Rồi sunakkhatta Licchaviputta đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Sunakkhatta Licchaviputta bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn con có được nghe như sau : "Nhiều Tỷ-kheo, trước mặt Thế Tôn tuyên bố đă chứng trí giác : "Chúng tôi biết rằng sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những điều nên làm đă làm, không c̣n trở lại trạng thái này nữa". Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo ấy, trước mặt Thế Tôn tuyên bố đă chứng trí giác: "Chúng tôi biết rằng sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lại trạng thái này nữa". Bạch Thế Tôn, không biết các Tỷ-kheo ấy đă tuyên bố một cách chơn chánh chứng trí giác, hay ở đây có một số Tỷ-kheo, v́ tăng thượng mạn đă tuyên bố chứng trí giác ?

 

"Sunakkhatta, of the monks who have declared final gnosis in my presence... it is the case that some have rightly declared final gnosis, whereas others have declared final gnosis out of over-estimation. As for those who have rightly declared final gnosis, that is their truth. As for those who have declared final gnosis out of over-estimation, the thought occurs to the Tathagata, 'I will teach them the Dhamma.' Yet there are cases when the thought has occurred to the Tathagata, 'I will teach them the Dhamma,' but there are worthless men who come to him having formulated question after question, so that his thought, 'I will teach them the Dhamma,' changes into something else."



– Này Sunakkhatta, những vị Tỷ-kheo trước mặt Ta đă tuyên bố chứng trí giác : "Chúng tôi biết rằng, sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lại trạng thái này nữa". Ở đây, có một số Tỷ-kheo đă chơn chánh tuyên bố chứng trí giác; nhưng ở đây, cũng có một số Tỷ-kheo chính v́ tăng thượng mạn, đă tuyên bố chứng trí giác. Ở đây, này Sunakkhatta, những vị Tỷ-kheo nào đă chơn chánh tuyên bố chứng trí giác, thời đối với các vị ấy, thật là đúng như vậy. Nhưng đối với các vị Tỷ-kheo nào, v́ tăng thượng mạn đă tuyên bố chứng tri giác, ở đây, này Sunakkhatta, Như Lai nghĩ như sau : "Ta hăy thuyết pháp cho những vị ấy". Và như vậy, ở đây, này Sunakkhatta, Như Lai suy nghĩ : "Ta hăy thuyết pháp cho những vị ấy". Nhưng ở đây, nếu có một số người ngu si, bày đặt câu hỏi, đến hỏi Như Lai; ở đây, này Sunakkhatta, Như Lai suy nghĩ như sau: "Ta hăy thuyết pháp cho những người ấy". Như Lai suy nghĩ như vậy, không có làm khác.

 

"Now is the time, O Blessed One. Now is the time, O One Well-Gone, for the Blessed One to teach the Dhamma. Having heard the Blessed One, the monks will remember it."



– Nay đă đúng thời để thuyết pháp, bạch Thế Tôn ! Nay đă đúng thời để thuyết pháp, bạch Thiện Thệ ! Thế Tôn thuyết pháp như thế nào, sau khi nghe Thế Tôn xong, các Tỷ-kheo sẽ thọ tŕ.

 

"Then in that case, Sunakkhatta, listen & pay close attention. I will speak."



– Vậy này Sunakkhatta, hăy nghe và khéo tác ư kỹ, Ta sẽ giảng.

 

"As you say, lord," Sunakkhatta the Licchavin responded to the Blessed One.



– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Sunakkhatta Licchaviputta vâng đáp Thế Tôn.

 

The Blessed One said:
"Sunakkhatta, there are these five strings of sensuality. Which five?
-Forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing.
-Sounds cognizable via the ear...
-Aromas cognizable via the nose...
-Flavors cognizable via the tongue...
-Tactile sensations cognizable the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing.
These are the five strings of sensuality.



Thế Tôn nói như sau :
Này Sunakkhatta, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm ?
-Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư, liên hệ đến dục, hấp dẫn;
-Các tiếng do tai nhận thức... ;
-Các hương do mũi nhận thức... ;
-Các vị do lưỡi nhận thức... ;
-Các xúc do thân cảm xúc khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Này Sunakkhatta, những pháp này là năm dục trưởng dưỡng.

 

"Now there's the possible case where a certain person is intent on the baits of the world. When a person is intent on the baits of the world, that sort of talk interests him, his thinking & evaluating follow along those lines, he feels at home with that sort of person, and his mind gets along with that sort of person. But when talk concerning the imperturbable [the fourth jhana and the spheres of the infinitude of space & the infinitude of consciousness] is going on, he does not listen, does not lend ear, and does not exert his mind to know. He does not get along with that sort of person; his mind does not feel at home with him.



Nhưng này Sunakkhatta, sự t́nh này xảy ra khi ở đây có số người thiên nặng về vật chất thế gian. Đối với người thiên nặng về vật chất thế gian, này Sunakkhatta, câu chuyện (thích hợp với người ấy) phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người nào người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến bất động, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú vào tri giác. Và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú.

 

"Suppose that there were a man who had left his home village or town a long time ago. And he were to meet with a man who had left the village or town only a short time ago. He would ask if the people in the village or town were secure, well-fed, & free of disease, and the second man would tell him if they were secure, well-fed, & free of disease. Now, what do you think, Sunakkhatta. Would the first man listen to the second man, lend ear, and exert his mind to know? Would he get along with the second man; would his mind feel at home with him?"



Ví như này Sunakkhatta, có người đă lâu không trú ở trong làng hay thị trấn của ḿnh, và có thể thấy một người vừa mới từ làng ấy hay thị trấn ấy lại. Người này sẽ hỏi người ấy về sự an ninh của làng hay thị trấn ấy, về đồ ăn uống sung túc và về ít bệnh tật, và người ấy sẽ nói cho người này biết về sự an ổn của làng hay thị trấn ấy, về đồ ăn uống sung túc và về ít bệnh tật. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Có phải người này sẽ nghe người kia, lóng tai, tâm an trú vào trí giác và người này sẽ giao thiệp với người ấy mà người này thích thú ?

 

"Yes, lord."



– Thưa phải vậy, bạch Thế Tôn.

 

"In the same way, it is possible that there is the case where a certain person is intent on the baits of the world. When a person is intent on the baits of the world, that sort of talk interests him, his thinking & evaluating follow along those lines, he feels at home with that sort of person, and his mind gets along with that sort of person. But when talk concerning the imperturbable [the fourth jhana and the spheres of the infinitude of space and the infinitude of consciousness] is going on, he does not listen, does not lend ear, and does not exert his mind to know. He does not get along with that sort of person; his mind does not feel at home with him. This is how it can be known that 'This person is intent on the baits of the world.'



– Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự t́nh này xảy ra khi ở đây có số người thiên nặng về vật chất thế gian. Đối với người thiên nặng về vật chất thế gian, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Bất động, thời người ấy không nghe, không lóng tai và tâm không an trú vào thượng trí, và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú. Người ấy cần được hiểu như vầy: "Là hạng người thiên nặng về vật chất thế gian".

 

"Now, there's the possible case where a certain person is intent on the imperturbable. When a person is intent on the imperturbable, that sort of talk interests him, his thinking & evaluating follow along those lines, he feels at home with that sort of person, and his mind gets along with that sort of person. But when talk concerning the baits of the world is going on, he does not listen, does not lend ear, and does not exert his mind to know. He does not get along with that sort of person; his mind does not feel at home with him.



Này Sunakkhatta, sự t́nh này xảy ra, khi một số người thiên nặng về Bất động. Đối với người thiên nặng về Bất động, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp (với người ấy) phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến vật chất thế gian, thời người ấy không nghe, không lóng tai và tâm không an trú vào thượng trí, và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú.

 

"Just as a yellow leaf released from its stem is incapable of ever again becoming green, in the same way, when a person is intent on the imperturbable, he is released from the fetter of the baits of the world. This is how it can be known that 'This person, disjoined from the fetter of the baits of the world, is intent on the imperturbable.'



Ví như, này Sunakkhatta, một lá vàng khô đă rời khỏi cành, không c̣n xanh trở lại; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về Bất động, đă rời khỏi kiết sử vật chất thế gian. Người ấy cần được hiểu như sau : "Đây là hạng người không liên hệ với kiết sử vật chất thế gian, thiên nặng về Bất động".

 

"Now, there's the possible case where a certain person is intent on the dimension of nothingness. When a person is intent on the dimension of nothingness, that sort of talk interests him, his thinking & evaluating follow along those lines, he feels at home with that sort of person, and his mind gets along with that sort of person. But when talk concerning the imperturbable is going on, he does not listen, does not lend ear, and does not exert his mind to know. He does not get along with that sort of person; his mind does not feel at home with him.



– Này Sunakkhatta, sự t́nh này xảy ra. Ở đây, có một số người thiên nặng về Vô sở hữu. Đối với người thiên nặng về Vô sở hữu, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Bất động, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú vào trí giác, và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú.

 

"Just as a thick rock broken in two cannot be put back together again, in the same way, when a person is intent on the dimension of nothingness, he has broken the fetter of the imperturbable. This is how it can be known that 'This person, disjoined from the fetter of the imperturbable, is intent on the dimension of nothingness.'



Ví như, này Sunakkhatta, một ḥn đá bị vỡ làm đôi không thể nối liền lại được; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về Vô sở hữu, đă bị chặt đứt khỏi kiết sử Bất động, người ấy cần được hiểu như sau: "Đây là hạng người không liên hệ với kiết sử Bất động, thiên nặng về Vô sở hữu".

 

"Now, there's the possible case where a certain person is intent on the dimension of neither perception nor non-perception. When a person is intent on the dimension of neither perception nor non-perception, that sort of talk interests him, his thinking & evaluating follow along those lines, he feels at home with that sort of person, and his mind gets along with that sort of person. But when talk concerning the dimension of nothingness is going on, he does not listen, does not lend ear, and does not exert his mind to know. He does not get along with that sort of person; his mind does not feel at home with him.



Này Sunakkhatta, sự t́nh này xảy ra. Ở đây, có một số người thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đối với người thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Vô sở hữu xứ, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú vào tri giác, và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú.

 

"Sunakkhatta, suppose that a person, having eaten some delicious food, were to vomit it up. What do you think — would he have any desire for that food?"



Ví như, này Sunakkhatta, một người đă ăn các món ăn mỹ vị và đă quăng bỏ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có ưa ăn lại món ăn ấy không ?

 

"No, lord. Why is that? Because he would consider that food to be disgusting."



– Bạch Thế Tôn không. V́ sao vậy ? V́ rằng, bạch Thế Tôn, món ăn ấy được xem là ghê tởm rồi.

 

"In the same way, when a person is intent on the dimension of neither perception nor non-perception, he has vomited up the fetter of the dimension of nothingness. This is how it can be known that 'This person, disjoined from the fetter of the dimension of nothingness, is intent on the dimension of neither perception nor non-perception.'



– Cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đă để một bên kiết sử Vô sở hữu xứ. Người ấy cần được hiểu như sau : "Đây là hạng người không liên hệ với kiết sử Vô sở hữu xứ, thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ".

 

"Now, there's the possible case where a certain person is rightly intent on Unbinding. When a person is rightly intent on Unbinding, that sort of talk interests him, his thinking & evaluating follow along those lines, he feels at home with that sort of person, and his mind gets along with that sort of person. But when talk concerning the dimension of neither perception nor non-perception is going on, he does not listen, does not lend ear, and does not exert his mind to know. He does not get along with that sort of person; his mind does not feel at home with him.



Này Sunakkhatta sự t́nh này xảy ra, khi ở đây, có số người thiên nặng về chánh Niết-bàn. Đối với hạng người thiên nặng về chánh Niết-bàn, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú vào trí giác. Và người ấy không giao thiệp với người mà người mà ấy không thích.

 

"Just as a palm tree with its top cut off is incapable of further growth, in the same way, when a person is rightly intent on Unbinding, he has destroyed the fetter of the dimension of neither perception nor non-perception, has destroyed it by the root, like an uprooted palm tree deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. This is how it can be known that 'This person, disjoined from the fetter of the dimension of neither perception nor non-perception, is intent on Unbinding.'



Ví như, này Sunakkhatta, cây tala ngọn cây đă bị chặt đứt không thể lớn được nữa; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về chánh Niết-bàn, đă cắt đứt kiết sử Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đă cắt đứt từ rễ, làm cho như cây tala không thể tái sanh, không thể khởi lên lại trong tương lai. Người ấy cần phải được hiểu như sau : "Đây là hạng người không liên hệ với kiết sử Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thiên nặng về chánh Niết-bàn".

 

"Now, there's the possible case where a certain monk thinks, 'Craving is said by the Contemplative [the Buddha] to be an arrow. The poison of ignorance spreads its toxin through desire, passion, & ill will. I have abandoned the arrow. I have expelled the poison of ignorance. I am rightly intent on Unbinding.' Because this is not true of him, he might pursue those things that are unsuitable for a person rightly intent on Unbinding. He might pursue unsuitable forms & sights with the eye. He might pursue unsuitable sounds with the ear... unsuitable aromas with the nose... unsuitable flavors with the tongue... unsuitable tactile sensations with the body. He might pursue unsuitable ideas with the intellect. When he pursues unsuitable forms & sights with the eye... pursue unsuitable ideas with the intellect, lust invades the mind. With his mind invaded by lust, he incurs death or death-like suffering.



Này Sunakkhatta, sự t́nh này xảy ra, khi ở đây, có một số người suy nghĩ như sau : "Tham ái được vị Sa-môn gọi là mũi tên. Thuốc độc vô minh làm năo hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đă được ta đoạn diệt; thuốc độc vô minh đă được trừ khử; ta thiên nặng về chánh Niết-bàn". Vị ấy có thể tự hào với mục đích hiện tại. Vị ấy có thể truy cầu những ǵ không thích hợp với khuynh hướng chánh Niết-bàn, mắt vị ấy có thể truy cầu sắc không thích hợp, tai có thể truy cầu tiếng không thích hợp, mũi có thể truy cầu hương không thích hợp, lưỡi có thể truy cầu vị không thích hợp, thân có thể truy cầu xúc không thích hợp, ư có thể truy cầu pháp không thích hợp. Khi mắt truy cầu sắc không thích hợp, tai truy cầu tiếng không thích hợp, mũi truy cầu hương không thích hợp, lưỡi truy cầu vị không thích hợp, thân truy cầu xúc không thích hợp, ư truy cầu pháp không thích hợp, thời tham dục nhiễu loạn tâm vị ấy. Vị ấy do tâm bị tham dục nhiễu loạn đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết.

 

"Suppose that a man were wounded with an arrow thickly smeared with poison. His friends & companions, kinsmen & relatives would provide him with a surgeon. The surgeon would cut around the opening of the wound with a knife and then would probe for the arrow with a probe. He then would pull out the arrow and extract the poison, leaving a residue behind. Knowing that a residue was left behind, he would say, 'My good man, your arrow has been pulled out. The poison has been extracted, with a residue left behind, but it is not enough to do you harm. Eat suitable food. Don't eat unsuitable food, or else the wound will fester. Wash the wound frequently, smear it with an ointment frequently, so that blood & pus don't fill the opening of the wound. Don't walk around in the wind & sun, or else dust & dirt may contaminate the opening of the wound. Keep looking after the wound, my good man, and work for its healing.'



Ví như, này Sunakkhatta, một người bị mũi tên bắn, tên ấy có tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống người ấy cho mời một y sĩ giải phẫu. Vị y sĩ giải phẫu ấy có thể cắt xung quanh miệng vết thương với con dao; sau khi cắt xung quanh miệng vết thương với con dao, vị y sĩ giải phẫu có thể ḍ t́m mũi tên với một vật dụng ḍ t́m. Sau khi ḍ t́m mũi tên với một vật dụng ḍ t́m, y sĩ có thể rút mũi tên ra. Y sĩ có thể trừ khử hết thuốc độc, c̣n để lại một ít nhưng nghĩ không có thuốc độc nào c̣n lại, y sĩ nói như sau : "Này Hiền giả, mũi tên của Bạn đă được rút ra thuốc độc đă được trừ khử, không c̣n dư tàn, và không c̣n ǵ nguy hiểm nữa cho Bạn, nhưng Bạn phải chỉ ăn các đồ ăn thích hợp, và hăy ǵn giữ, nếu ăn đồ ăn không thích hợp, vết thương của Bạn sẽ làm mủ lại, và thường thường phải cho rửa vết thương, thường thường phải xức thuốc cho miệng vết thương. Trong khi thường thường cho rửa vết thương, thường thường xức thuốc cho miệng vết thương, chớ có để máu cũ đóng khô trên miệng vết thương và hăy cẩn thận khi đi ra giữa gió và nắng; nếu không, bụi và nhớp có thể nhiễu hại miệng vết thương. Và này Bạn, nếu Bạn chăm sóc vết thương, thời vết thương sẽ được lành".

 

"The thought would occur to the man: 'My arrow has been pulled out. The poison has been extracted, with a residue left behind, but it is not enough to do me harm.' He would eat unsuitable food, so the wound would fester. He wouldn't wash the wound or smear it with an ointment frequently, so blood & pus would fill the opening of the wound. He would walk around in the wind & sun, so dust & dirt would contaminate the opening of the wound. He wouldn't keep looking after the wound or work for its healing. Now, both because of these unsuitable actions of his and because of the residue of the dirty poison left behind, the wound would swell. With the swelling of the wound he would incur death or death-like suffering.



Người ấy suy nghĩ như sau: "Mũi tên đă được rút khỏi (thân) ta, nọc độc đă được trừ khử, không c̣n dư tàn, và ta đă thoát khỏi nguy hiểm". Và người ấy ăn những đồ ăn không thích hợp. V́ người ấy ăn những đồ ăn không thích hợp, nên vết thương làm mủ lại. Và thường thường người ấy không rửa vết thương, thường thường không xức thuốc miệng vết thương. V́ người ấy thường thường không rửa vết thương, v́ người ấy thường thường không xức thuốc miệng vết thương, nên máu cũ đông lại trên miệng vết thương. Và người ấy thường hay đi giữa gió và nắng. Do người ấy thường hay đi giữa gió và nắng, bụi và nhớp nhiễu hại miệng vết thương; và v́ người ấy không chăm sóc vết thương nên vết thương không được lành. V́ người ấy làm chính những việc không thích hợp, và do thuốc độc được trừ khử nhưng c̣n dư tàn, do cả hai điều ấy nên miệng vết thương có thể lở to hơn trước. Do vết thương lở to, người ấy có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết.

 

"In the same way, there's the possible case where a certain monk thinks, 'Craving is said by the Contemplative to be an arrow. The poison of ignorance spreads its toxin through desire, passion, & ill will. I have abandoned the arrow. I have expelled the poison of ignorance. I am rightly intent on Unbinding.' Because this is not true of him, he might pursue those things that are unsuitable for a person rightly intent on Unbinding. He might pursue unsuitable forms & sights with the eye. He might pursue unsuitable sounds with the ear... unsuitable aromas with the nose... unsuitable flavors with the tongue... unsuitable tactile sensations with the body. He might pursue unsuitable ideas with the intellect. When he pursues unsuitable forms & sights with the eye... pursue unsuitable ideas with the intellect, lust invades the mind. With his mind invaded by lust, he incurs death or death-like suffering. For this is death in the discipline of the noble ones: when one renounces the training and returns to the lower life. And this is death-like suffering: when one commits a defiled offense.



Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự kiện này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo nghĩ như sau : "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô minh làm năo hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đă được ta đoạn diệt; thuốc độc vô minh đă được trừ khử. Ta thiên nặng về chánh Niết-bàn". Vị ấy có thể tự hào với mục đích hiện tại. Vị ấy có thể truy cầu những ǵ không thích hợp với khuynh hướng chánh Niết-bàn. Mắt có thể truy cầu sắc không thích hợp, tai có thể truy cầu tiếng không thích hợp, mũi có thể truy cầu hương không thích hợp, lưỡi có thể truy cầu vị không thích hợp, thân có thể truy cầu xúc không thích hợp, ư có thể truy cầu pháp không thích hợp. Khi mắt truy cầu sắc không thích hợp, tai truy cầu tiếng không thích hợp, mũi truy cầu hương không thích hợp, lưỡi truy cầu vị không thích hợp, thân truy cầu xúc không thích hợp, ư truy cầu pháp không thích hợp. thời tham dục nhiễu loạn tâm vị ấy. Vị ấy do tham dục nhiễu loạn tâm, đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết. Như vậy, này Sunakkhatta, là chết trong giới luật của bậc Thánh, khi vị ấy từ bỏ tu tập, trở về hoàn tục, và như vậy, này Sunakkhatta, là khổ như chết, khi vị ấy phạm một ô uế tội nào.

 

"Now, there's the possible case where a certain monk thinks, 'Craving is said by the Contemplative to be an arrow. The poison of ignorance spreads its toxin through desire, passion, & ill will. I have abandoned the arrow. I have expelled the poison of ignorance. I am rightly intent on Unbinding.' Because he is rightly intent on Unbinding, he wouldn't pursue those things that are unsuitable for a person rightly intent on Unbinding. He wouldn't pursue unsuitable forms & sights with the eye. He wouldn't pursue unsuitable sounds with the ear... unsuitable aromas with the nose... unsuitable flavors with the tongue... unsuitable tactile sensations with the body. He wouldn't pursue unsuitable ideas with the intellect. When he doesn't pursue unsuitable forms & sights with the eye... doesn't pursue unsuitable ideas with the intellect, lust doesn't invade the mind. With his mind not invaded by lust, he doesn't incur death or death-like suffering.



Này Sunakkhatta, sự t́nh này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô minh làm năo hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đă được ta đoạn diệt, thuốc độc vô minh đă được trừ khử. Ta thiên nặng về chánh Niết-bàn". Chính v́ thiên nặng về chánh Niết-bàn, vị ấy không truy cầu những ǵ không thích hợp với (khuynh hướng) thiên nặng về Niết-bàn, mắt không truy cầu sắc không thích hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi không truy cầu hương không thích hợp, lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, thân không truy cầu xúc không thích hợp, ư không truy cầu pháp không thích hợp. V́ mắt vị ấy không truy cầu sắc không thích hợp, v́ tai không truy cầu tiếng không thích hợp, v́ mũi không truy cầu hương không thích hợp, v́ lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, v́ thân không truy cầu xúc không thích hợp, v́ ư không truy cầu pháp không thích hợp, nên tham dục không nhiễu loạn tâm, v́ tham dục không nhiễu loạn tâm; nên vị ấy không đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết.

 

"Suppose that a man were wounded with an arrow thickly smeared with poison. His friends & companions, kinsmen & relatives would provide him with a surgeon. The surgeon would cut around the opening of the wound with a knife and then would probe for the arrow with a probe. He then would pull out the arrow and extract the poison, leaving no residue behind. Knowing that no residue was left behind, he would say, 'My good man, your arrow has been pulled out. The poison has been extracted, with no residue left behind, so it is not enough to do you harm. Eat suitable food. Don't eat unsuitable food, or else the wound will fester. Wash the wound frequently, smear it with an ointment frequently, so that blood & pus don't fill the opening of the wound. Don't walk around in the wind & sun, or else dust & dirt may contaminate the opening of the wound. Keep looking after the wound, my good man, and work for its healing.'



Ví như, này Sunakkhatta, một người bị tên bắn, và mũi tên bị tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống người ấy cho mời một y sĩ giải phẫu. Vị y sĩ giải phẫu ấy có thể cắt xung quanh miệng vết thương với con dao; sau khi cắt xung quanh miệng vết thương với con dao, vị y sĩ giải phẫu có thể ḍ t́m tên với một vật dụng ḍ t́m. Sau khi ḍ t́m mũi tên với một vật dụng ḍ t́m, y sĩ có thể rút mũi tên ra. Y sĩ có thể trừ khử hết thuốc độc không c̣n để dư lại và biết rằng không c̣n để dư lại. Vị ấy nói như sau: "Này Bạn, mũi tên của Bạn đă được rút ra, thuốc độc đă được trừ khử, không có dư tàn, nhưng vẫn c̣n nguy hiểm cho Bạn. Và Bạn hăy ăn những đồ ăn thích hợp, chớ ăn những đồ ăn không thích hợp khiến vết thương có thể làm mủ; và thường thường hăy rửa vết thương, thường thường hăy xức thuốc miệng vết thương, thường thường rửa vết thương, thường thường xức thuốc miệng vết thương, chớ để máu cũ đóng khô lại trên miệng vết thương. Và chớ có đi ra giữa gió và nắng; đi ra giữa gió và nắng, chớ để bụi và nhớp làm nhiễu hại miệng vết thương, hăy sống ǵn giữ vết thương, này Bạn, và vết thương sẽ lành".

 

"The thought would occur to the man: 'My arrow has been pulled out. The poison has been extracted with no residue left behind, so it is not enough to do me harm.' He would eat suitable food, so the wound wouldn't fester. He would wash the wound and smear it with an ointment frequently, so blood & pus wouldn't fill the opening of the wound. He would not walk around in the wind & sun, so dust & dirt wouldn't contaminate the opening of the wound. He would keep looking after the wound and would work for its healing. Now, both because of these suitable actions of his and because of there being no residue of the poison left behind, the wound would heal. With the healing of the wound and its being covered with skin, he wouldn't incur death or death-like suffering.


Người ấy suy nghĩ như sau: "Mũi tên đă được rút ra khỏi ta, thuốc độc đă được trừ khử, không có dư tàn. Và ta chưa thoát khỏi nguy hiểm". Và vị ấy có thể chỉ ăn các đồ ăn thích hợp. Do chỉ ăn các đồ ăn thích hợp miệng vết thương có thể không làm mủ. Và thường thường vị ấy có thể rửa vết thương, thường thường có thể xức thuốc miệng vết thương. Do thường thường rửa vết thương, do thường thường xức thuốc miệng vết thương, máu cũ không có thể đóng khô lại trên miệng vết thương. Người ấy không sốt sắng đi giữa gió và nắng. Do người ấy không sốt sắng đi giữa gió và nắng, bụi và nhớp có thể không nhiễu hại miệng vết thương và người ấy sống ǵn giữ vết thương, và vết thương được lành. V́ người ấy chỉ làm những điều thích hợp và v́ thuốc độc được trừ khử không c̣n dư tàn, do hai (nhân duyên ấy) vết thương được khép kín lại. Khi vết thương được da che kín lại, người ấy không đi đến chết hay không đi đến khổ gần như chết.

 

"In the same way, there's the possible case where a certain monk thinks, 'Craving is said by the Contemplative to be an arrow. The poison of ignorance spreads its toxin through desire, passion, & ill will. I have abandoned the arrow. I have expelled the poison of ignorance. I am rightly intent on Unbinding.' Because he is rightly intent on Unbinding, he wouldn't pursue those things that are unsuitable for a person rightly intent on Unbinding. He wouldn't pursue unsuitable forms & sights with the eye. He wouldn't pursue unsuitable sounds with the ear... unsuitable aromas with the nose... unsuitable flavors with the tongue... unsuitable tactile sensations with the body. He wouldn't pursue unsuitable ideas with the intellect. When he doesn't pursue unsuitable forms & sights with the eye... doesn't pursue unsuitable ideas with the intellect, lust doesn't invade the mind. With his mind not invaded by lust, he doesn't incur death or death-like suffering.



Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự kiện này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô minh làm năo hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đă được ta đoạn diệt.... (như trên)... không có truy cầu những ǵ không thích hợp. Mắt không truy cầu sắc không thích hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi không truy cầu hương không thích hợp, lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, thân không truy cầu xúc không thích hợp, ư không truy cầu pháp không thích hợp. Do mắt người ấy không truy cầu sắc không thích hợp, do tai không truy cầu tiếng không thích hợp, do mũi không truy cầu hương không thích hợp, do lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, do thân không truy cầu xúc không thích hợp, do ư không truy cầu pháp không thích hợp, tham dục có thể không nhiễu hại tâm. Do tâm không bị tham dục nhiễu hại, nên người ấy không đi đến chết, hay không đi đến khổ gần như chết.

 

"I have given this simile to convey a meaning. The meaning is this:
-The wound stands for the six internal sense media;

-The poison, for ignorance;

-The arrow, for craving;
-The probe, for mindfulness;

-The knife, for noble discernment;

-The surgeon, for the Tathagata, worthy & rightly self-awakened.



Này Sunakkhatta, Ta nói ví dụ này với mục đích làm sáng tỏ ư nghĩa. Nghĩa ở đây như sau:
-Vết thương, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với sáu xúc xứ (phassayatana);
-Thuốc độc, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với vô minh;
-Mũi tên, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với ái;
-Vật dụng ḍ t́m, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với niệm;
-Con dao, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với Thánh trí tuệ.
-Vị y sĩ giải phẫu, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.

 

"Now, when a monk — maintaining restraint over the six spheres of contact, knowing that 'Acquisition is the root of stress' — is free from acquisition, released in the total ending of acquisition, it's not possible that, with regard to acquisition, he would stir his body or arouse his mind.



Thật vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo tự ḿnh pḥng hộ đối với sáu xúc xứ, nghĩ rằng: "Sanh y (Upadhi) là căn bản của khổ", sau khi biết như vậy, vị ấy trở thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. Vị ấy c̣n chú thân của ḿnh trên sanh y hay để tâm đến sanh y, sự t́nh như vậy không xảy ra.

 

"Suppose there were a beverage in a bronze cup — consummate in its color, smell, & flavor — but mixed with poison. And suppose a man were to come along, wanting to live, not wanting to die, desiring pleasure, & abhorring pain. What do you think, Sunakkhatta — would he drink the beverage in the bronze cup knowing that 'Having drunk this, I will incur death or death-like suffering'?"



Ví như, này Sunakkhatta, một chén uống nước bằng đồng, đẹp đẽ và hương thơm, và chén ấy lại tẩm thuốc độc. Rồi một người đến, muốn sống, muốn không chết, muốn lạc, yếm ly khổ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có uống chén bằng đồng này không, nếu người ấy biết: "Sau khi tôi uống từ đây, tôi sẽ đi đến chết hoặc đi đến gần như chết ?"

 

"No, lord."



– Thưa không, bạch Thế Tôn.

 

"In the same way, when a monk — maintaining restraint over the six spheres of contact, knowing that 'Acquisition is the root of stress' — is free from acquisition, released in the total ending of acquisition, it's not possible that, with regard to acquisition, he would stir his body or arouse his mind.



– Cũng vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo ấy chắc chắn pḥng hộ đối với sáu xúc xứ. "Sanh y là căn bản của đau khổ", sau khi biết vậy, vị ấy trở thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. C̣n chú thân của vị ấy trên sanh y, để tâm đến sanh y, sự t́nh như vậy không xảy ra.

 

"Suppose there were a deadly poisonous viper, and a man were to come along, wanting to live, not wanting to die, desiring pleasure, & abhorring pain. What do you think, Sunakkhatta — would he give his hand or finger to the snake knowing that 'Having been bitten by this, I will incur death or death-like suffering'?"



Ví như, này Sunakkhatta, một con rắn độc hết sức độc hại, và có một người đến, muốn sống, muốn không chết, muốn lạc, yếm ly khổ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có đưa tay hay gót chân cho con rắn độc hại này không, nếu người ấy biết: "Nếu ta bị con rắn này cắn, ta sẽ đi đến chết hay khổ gần như chết ?"

 

"No, lord."



– Thưa không, bạch Thế Tôn.

 

"In the same way, when a monk — maintaining restraint over the six spheres of contact, knowing that 'Acquisition is the root of stress' — is free from acquisition, released in the total ending of acquisition, it's not possible that, with regard to acquisition, he would stir his body or arouse his mind."



Cũng vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo ấy chắc chắn pḥng hộ sáu xúc xứ. "Sanh y là căn bản đau khổ", sau khi biết vậy, vị ấy trở thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. C̣n chú thân của vị ấy trên sanh y, hay để tâm đến sanh y, sự t́nh như vậy không xảy ra.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, Sunakkhatta the Licchavin delighted in the Blessed One's words.



Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sunakkhatta Licchaviputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |